Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên
Phan_4
Phật nói: “Dục đắc tịnh thổ, đương tịnh kỳ tâm, tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật thổ tịnh, Thánh nhân cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm; trí già điều tâm bất điều thân, ngu già điều thân bất điều tâm.” (Tạm dịch: Muốn được tịnh thổ, phải tịnh tâm mình, tâm mình tịnh rồi, đó là Phật thổ tịnh. Thành nhân cầu tâm chẳng cầu Phật, người ngu cầu Phật chẳng cầu tâm; người trí điều hoà tâm chẳng điều chỉnh thân, kẻ ngu điều chỉnh thân chẳng điều hoà tâm). Có thể thấy chỉ cần có một Thiền tâm bình hoà yên tĩnh, là có thể quét sạch hết thảy gió mây vần vũ, chìm nổi lận đận của thế gian. Có thể thấu tỏ hết thảy sự vật nhạy bén, cho dù thân ở giữa nơi đồng hoang mênh mang cũng không lầm vào đường rẽ, rơi vào mê hoặc. Khi chẳng có gì, chỉ giữ cho tâm của mình, tự vui vẻ bình an.
Thiền là cam lộ, nuôi dưỡng chúng sinh; là diệu dược, phổ độ vạn vật.
Vạn sự trong nhân gian đều là tầm thường, cũng đều là vô thường, chỉ có bỏ qua, mới có thể ung dung tự tại, mới có thể thể nghiệm huyền có mộng ảo như bong bóng. Năm tháng tựa sương, vầng dương như bay, nhìn núi xa đường đá, đom đóm loé sáng lập loè. Lúc trùng phùng, đã là lá rụng núi trống, hạc về tăm không, nhân sinh đã buổi xế chiều.
Một chén trà trong, uống đến khi nguội. Vở kịch một khi đã diễn, sẽ xem tận đến lúc hạ màn. Bài học cần tu cả đời, cũng sẽ viết nên kết cục, vào một thời khắc kết thúc nào đó. Phật tin: Không nói được[29]. Mây nước vô bờ, nhân gian an vui, trên thế gian đáng quý này, bạn đến, ở nơi này, bạn đi, vẫn ở nơi này. Sự tồn tại đó thật giản đơn, vạn vật hoá cát bụi, vui vẻ mà ngợi khen.
[29] Nguyên văn “bất khả thuyết” hay còn gọi là “bất khả ngôn thuyết”. hoặc “bất thuyết”; tiếng Phạn là “anabhila^pya”, tiếng Tạng là “brjod-du-med-pa”, nghĩa là chân lý có thể chứng ngộ, chứ không thể nói thành lời, là một thuật ngữ của Phật giáo.
Kiếp này, cho dù phía trước là bụi vàng lướt bay, hay là nước lặng yên sóng, thì vẫn cứ đi tiếp như thế. Kiếp sau, hẹn gặp trên đài hoa sen. Bạn rực rỡ vàng son, từ bi hiền hoà; tôi toàn thân trắng muốt, trang nghiêm tĩnh lặng.
Quyển thứ hai: Phong tình cổ trấn
Có lẽ chúng ta đều là những người tin vào tiền duyên, cho nên, thân sống giữa phồn hoa, vẫn không quên kiếm tìm những tháng ngày xưa cũ đó. Chuyện xưa trôi qua như mây khói tản mát, giữa bóng đêm của năm tháng âm thầm đổi thay, vừa ban nãy vẫn còn phong trần cuộn sóng, bây giờ đã không còn lại dấu vết gì. Năm tháng không biết đã đổi dung nhan bao lần, chỉ có cổ trấn là vẫn giữ lời thề ước năm xưa, không dám thay đổi dáng vẻ ban đầu. Tường viện xanh rêu âm ẩm, ngõ nhỏ sâu dài hun hút, lầu gỗ cổ kính, hành lang quanh co, sân khấu loang lổ, tuy đã phủ đầy bụi bặm của dĩ vãng, nhưng vẫn là mối tâm tình trong giấc mộng. Đẩy cánh cửa bị thời gian khép hờ, những tình cảm cảnh cũ người xưa còn lưu giữ nơi cổ trấn đó, vẫn bình yên êm ả như thế…
Tây Đường như mộng
Cho dù là người đã từng hay chưa từng đến Tây Đường đều sẽ cảm thấy, Tây Đường là một giấc mộng, một giấc mộng thuộc về Giang Nam. Nó nên thơ cổ kính, thuần phác tĩnh lặng, đã từng bị người đời quên lãng, đến nay lại được người ta tìm kiếm. Tôi luôn cho rằng những người đến Tây Đường là những người không từ bỏ được quá khứ hữu tình. Bởi vì mỗi phong cảnh nơi đây đều có thể dễ dàng, nhẹ nhàng lay động sự mềm yếu trong bạn. Giữa phong cảnh sự vật yên tĩnh của Tây Đường, có thể mơ một giấc mơ dài, khi tỉnh lại, cũng sẽ có những tháng ngày không lưu giữ được.
Trước khi đến Tây Đường, tôi cũng chỉ là một khách bộ hành ngẫu nhiên, mà không biết rằng từ ngàn năm trước đó, mình đã từng có duyên phận với nó. Thời Xuân Thu, Ngũ Tử Tư của nước Ngô đã khơi thông thủy lợi, vận hành chuyển muối, khai vét Ngũ Tử đường, dẫn nước từ phía Bắc núi Tư chảy về trong vùng, vì thế từ đó Tây Đường cũng được gọi là Tư Đường. Cũng chính là một chữ “Tư” này, khiến tôi cho rằng, mình và Tây Đường có nhân quả định mệnh[1]. Cho dù chỉ là cảm xúc đơn phương, nhưng vì trong lòng chất chứa cảm xúc này, nên trước mỗi cảnh mỗi vật ở Tây Đường, tôi đều không kìm được xiết bao lưu luyến.
[1] Tác giả Bạch Lạc Mai tên thật là Tư Trí Tuệ.
Tháng năm yên tĩnh, khe khẽ dập dềnh giữa sóng nước. Dưới ngói xanh tường xám, dường như chớp mắt đã có thể nhìn thấy lịch sử xa xăm của Tây Đường. Thực ra Tây Đường không có một chiều dài lịch sử lớn lao thâm trầm, cũng không có nhiều nhân vật hô mưa gọi gió. Năm tháng cũng như dòng sông nơi đây, cứ từ từ chảy miết, không có sóng to gió lớn hãi hùng, chỉ bình dị yên ổn. Tòa cổ trấn ngàn năm này, từ khi bắt đầu đã có dáng vẻ cổ kính, đơn sơ như thế. Ung dung bước qua bốn mùa thay đổi, ung dung nhìn hợp hợp tan tan của đời người, cũng ung dung tiếp nhận những khách qua đường vãng lai và những tình cảm khác nhau mà họ đem tới.
Tây Đường ven sông, tựa như luôn có một làn sương mỏng như lụa bao bọc, chỉ cần như vậy đã có thể làm nổi bật được phong vận của miền sông nước Giang Nam. Nước chảy reo ca, khỏa chèo nhẩm hát, những nhà dân cổ kính hai bên bờ là cảnh tượng nguyên sơ mà chân thực của tiểu trấn. Biết bao năm, con người nơi đây cũng đã kinh qua bao lần đổi thay, chỉ là lại thêm một lần luân hồi, chứ không thể làm thay đổi ký ức xanh thẳm đó. Dưới bầu trời bao la, không nhìn thấy được lầu cao thành thị, chỉ có những ngôi nhà cũ điểm tô năm qua năm tới kể lại những câu chuyện na ná như nhau.
Lầu gỗ đơn sơ có mấy cánh cửa trên mái hiên đang hé mở, khiến tôi quên hết mệt mỏi của chuyến đi, thậm chí còn tự tưởng tượng rằng, có một cánh cửa đã mở vì mình, có một người đang đợi mình. Mà tôi không biết phong cảnh Tây Đường xưa nay không dễ dàng bị người ta làm kinh động. Đây là miền sông nước trong mộng của rất nhiều người, bạn có thể cảm nhận được hơi thở của nó từ rất xa, nhưng chẳng mấy người có thể lưu lại mãi mãi. Chỉ là có được trong khoảnh khắc, để đổi lấy nhớ nhung một đời, Tây Đường cũng không phụ lòng bất cứ người nào đi ngang qua cuộc đời nó.
Những người đã từng đến Tây Đường nhất định sẽ không quên hành lang nghìn mét dài hun hút đó. Ở Giang Nam, những hành lang ven nước này đâu đâu cũng thấy, nhưng chỉ có hành lang ở Tây Đường mới khiến bạn cả đời khó quên. Bởi vì độ dài ấy như thể đi đến tận kiếp sau mới hết. Bạn có thể thoải mái mơ một giấc mơ ở nơi này, không cần lo lắng bị bất cứ cảnh tượng hiện thực nào đánh thức. Chỉ lắng lòng cảm nhận ngọn gió đang quét qua hành lang dài, lướt qua làm đáy lòng se se lạnh, mà bức tranh Giang Nam, câu chuyện đời người, cứ thế từ từ mở ra.
Có người nói với tôi, con phố dài dằng dặc này có những ngọn nguồn tươi đẹp. Mà tôi lại không muốn biết căn nguyên của những chuyện xưa đó, chỉ muốn bình an có được cuộc gặp gỡ này – cuộc gặp gỡ với Tây Đường trên hành lang sinh mệnh. Sau khi quay người, dù nó sẽ lãng quên tôi, tôi cũng sẽ hết sức trân trọng mối lưu luyến chẳng thể cắt rời này.
Tôi như một khách qua đường, đến bến đò Tây Đường, tôi đợi một chiếc thuyền, sắp xếp cuộc gặp gỡ trong cuộc đời. Ngay khoảnh khắc tương phùng này đã dự kiến một màn ly biệt, chỉ là cuộc đời của mỗi con người, đều vì quá trình này mà hối hả đuổi theo. Trong nhân quả đã định, không ai còn mải mê tính toán được mất. Xuôi theo dòng nước, thử quên đi hành lý nặng nề trên vai, giữa dòng chảy cứ gặp đâu vui đấy. Cây cầu cổ ở Tây Đường giống như một cây cổ cầm bắc ngang sông nước, cùng một dây đàn nhưng mỗi người lại có thể gảy nên tiếng nhạc và thanh điệu khác nhau.
Ký ức liên quan đến những cây cầu luôn khiến người ta nhớ đến bài “Đoạn chương” của thi nhân Biện Chi Lâm: “Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh. Người ngắm phong cảnh trên lầu ngắm em. Trăng sáng tô điểm khung cửa của em. Em tô điểm cho giấc mộng người khác.” Còn tôi luôn cho rằng, người đứng trên cầu chưa chắc biết mình đã trở thành phong cảnh của người khác, người ngồi trên thuyền, cũng không biết anh ta đã tô điểm cho giấc mộng của kẻ nào!
Kỳ thực, cuộc tương phùng xa lạ giữa người và người, đa phần chỉ là lướt qua nhau, cái họ có thể ghi nhớ là cây cầu kinh qua ngàn năm không đổi, chứ không phải là phong cảnh nơi họ đã dạo chân qua. Lại có lẽ, đa tình chỉ là những vị khách qua đường, vì mỗi cây cầu hàng ngày đưa tiễn biết bao vị khách, chúng chẳng có lòng nào lưu ý đến những phù hoa đó. Nước chảy róc rách chẳng ngừng, chở tôi đi về bờ bên kia, chỉ có cây cầu Tây Đường và những mái nhà miền sông nước lẳng lặng nhìn nhau mãi chẳng muộn phiền.
Ở Tây Đường, còn một nơi có thể cất giữ linh hồn, đó là Thạch Bì lộng[2] được mệnh danh là “Giang Nam đệ nhất lộng[3]”. Trong một góc nhỏ khuất tầm mắt, viết ba chữ giản dị “Thạch Bì lộng”. Một ngõ nhỏ cũ kỹ chật hẹp, giống như một chuyện cũ lạc trong góc khuất của thời gian, giữa ẩn ẩn hiện hiện, tựa như không có điểm tận cùng. Người đến Tây Đường đều sẽ không từ bỏ cuộc tương phùng này, cho dù Thạch Bì lộng xưa nay chưa từng dành cho bất cứ người nào một lời hứa dù là giản đơn. Nhưng sự chất phác mang theo vẻ thần bí lại khiến người ta có thể thấy được quá khứ chân thực.
[2] Thạch Bì lộng: Là một ngõ nhỏ hình thành giữa hai phủ đệ của con cháu Vương gia, được lát bằng 168 viên đá, dài 68 mét, rộng 0,8 mét.
[3] Lộng, lộng đường tức là ngõ, ngách.
Những bức tường cũ kỹ ghi đầy dấu vết tháng năm bị thời gian đẽo từng mảng, từng mảng một. Những ký ức rơi rụng này đã gom góp lại những lênh đênh sông nước tự cổ chí kim. Trên con đường lát đá mỏng, bước chân một số người âm thầm lại gần, bước chân một số người đã vội vã đi xa, chỉ có thời gian trầm mặc là còn lưu lại nơi đây, chưa từng hỏi nhân quả.
Theo dòng suy tư mênh mang, hoàng hôn càng lúc càng xa, Tây Đường mới thấp thoáng đèn hoa lại mang một vẻ đẹp khác. Hành lang dài ven sông treo một hàng đèn lồng đỏ, ánh đèn dịu mắt tựa như tơ lụa Giang Nam, mang theo biết bao đa tình và thương mến. Đêm Tây Đường rất tĩnh lặng, tĩnh lặng đến mức có thể nhìn thấy chiếc bóng trong giọt nước đậu trên hai bờ ngói xanh. Đêm Tây Đường, dưới ánh đèn mờ tối có một vẻ hoa lệ không thể che mờ.
Sân khấu nổi trên mặt nước là khung cảnh sinh động nhất trong màn đêm Tây Đường. Hý khúc Giang Nam truyền thống, khẽ hát tiếng Ngô uyển chuyển[4], tựa như một chén rượu nhàn nhạt dưới trăng thanh gió mát, chuốc say cả người trên, kẻ dưới sân khấu. Biết bao tháng năm đã bị sông nước nồng hậu nơi đây tưới ướt đẫm, mà họ cam tâm tình nguyện nhảy xuống nỗi ưu thương của nước, chỉ vì một nỗi xúc động dịu dàng trong tim. Mỗi người đều chất chứa trong mình một tình cảm tinh tế mà đẹp đẽ, trong phàm trần khói lửa, họ không dễ dàng bộc lộ bản thân. Là Tây Đường đã khiến họ dũng cảm bộc bạch, hơn nữa trong cuộc đời đầy gò bó, có thể có được niềm vui không thể nào quên như thế.
[4] Nguyên văn “Ngô nông nhuyễn ngữ”, tức chỉ giọng địa phương vùng Giang Nam ngữ điệu uyển chuyển dễ nghe.
Ở một quán trà nào đó của Tây Đường, gọi một bình trà, lặng lẽ nhìn người đi qua lại, giữa hơi nước mờ mịt, lòng người bình thản hiền hòa. Tôi đem tất cả ký ức về Tây Đường ngâm trong bình trà này, đến khi trà nhạt, tôi liền rời đi. Hai bên chưa từng hứa hẹn, cho nên cũng không cần lưu lại dấu tích vấn vương. Ở Tây Đường, tôi chỉ là một hạt bụi bay qua tháng năm như nước chảy, có lẽ quay người, nó sẽ quên mất tôi là ai. Nhưng tôi, trước sau sẽ lưu lại đôi mắt tâm hồn, cố giữ vẻ đẹp cổ kính của nó.
Tây Đường đẹp như một giấc mộng, nhưng thực sự không phải là mộng. Có lẽ vào một ngày nào đó của nhiều năm sau, tôi sẽ đội gió vượt mưa trở về, hai bên đều đã nhạt nhoà dung nhan theo năm tháng, nhưng nó vẫn là nó, tôi vẫn là tôi.
Vụ Nguyên sắc màu
Nhiều khi chúng ta có thể đến một nơi mà không cần bất cứ lý do nào. Sau khi đến hãy nguyện tin vào cái gọi là duyên phận. Như thế có thể dễ dàng vượt qua lịch sử xuân thu, ngắm nhìn phong cảnh đủ khiến bạn cả đời nhung nhớ. Vụ Nguyên được mệnh danh là “làng quê đẹp nhất Trung Quốc”, khoảnh khắc tương phùng, tôi và bạn rũ bỏ lớp áo hoa lệ của thành thị, sóng bước cùng cuộc sống chất phác nơi này. Cho dù rất nhiều người vừa gặp đã say Vụ Nguyên, nhưng không ai nghĩ phải cùng nó định lời thề ước nào đó, mà chỉ muốn dừng chân lại chốn non nước bình lặng này, cảm ơn cuộc gặp gỡ ấm áp, cùng chung hạnh phúc bình dị.
Giữa thẳm sâu mây trắng, những thôn làng tường trắng ngói đen đó nằm hiền hòa giữa những ngọn núi, yên ả tĩnh lặng biết bao, không đua tranh với đời. Như một bức tranh thủy mặc đã định hình, khói mây trong tranh sẽ không tan biến, thời gian trong tranh sẽ không lưu chuyển. Mà những người mến tiếng xưa nay sẽ không kìm được suy ngẫm, ở một nơi cách xa tiếng ngựa xe huyên náo này, có phải cũng ẩn chứa những câu chuyện bình dị nhất nhân gian? Vậy mà, chính ở nơi không vướng bụi trần này lại chứa đựng nhiều mây khói đời thường, cất giữ nhiều dân tình chất phác, cũng là nơi bậc đại Nho như Chu Hy đời Tống cư trú.
Từ xưa tới nay, vì sự yên ổn này, biết bao tao nhân mặc khách đã cam tâm tình nguyện vứt bỏ danh lợi, rời xa đô thành, cưỡi một chú ngựa còm, ẩn cư điền viên. Giữ cánh cửa đơn sơ, sửa mấy cành rào giậu, ngắm đôi hàng đào mận đua sắc đơm bông. Hoặc ngồi im lặng dưới ánh mặt trời, pha một bình trà nhạt, nghe chim én trên xà nhà lách chách gọi nhau. Hoặc là trồng sen giữa ruộng, dắt một chú bò vàng, tha thẩn ngắm ráng chiều nơi chân trời. Sự yên bình của thôn xóm là an bài của thượng đế, tựa như một cái cây, một viên ngói xanh, một con kiến nhỏ, đều có số mệnh kỳ diệu của nó.
Nhất là mỗi độ tháng Tư, đầu thôn Vụ Nguyên tràn ngập sắc hoa cải dầu vàng rực. Những cành hoa nở bung, không hề giấu giếm giữa ngày xuân, không khiếp sợ thiều hoa[5] ngắn ngủi, đem sinh mệnh giao cho ánh nắng mùa xuân đơn sơ giữa thôn xóm. Mỗi vị khách từ xa đến đều phải vòng qua biển hoa thơm ngát này mới có thể vào được thôn trang trong mộng.
[5] Thiều hoa, hay thiều quang chỉ ngày xuân, mùa xuân.
Rất nhiều thân long não cổ thụ mọc thẳng tắp ở đầu thôn và cạnh tường sân, có lẽ chúng có thể quên đi tuổi đời của mình, nhưng lại không thể quên được mỗi cuộc gặp gỡ giữa khách qua đường với Vụ Nguyên, không thể quên được mỗi một câu chuyện như câu chuyện cũ bình hoa mai và cơn gió mát. Con đường dịch[6] lát đá xanh, biết bao người đã đi lướt qua nhau, ai cũng không thể nhớ nổi dung nhan của ai. Chỉ đứng giữa khói lửa của thế tục, để ngày tháng trôi qua nhàn nhạt như trà trong. Mùa ẩm ướt, giữa khe hở của đá mọc xanh rêu, tựa như cố ý cất giữ những phần không nên đánh mất. Có những tảng đá khắc chữ, giữ lại năm tháng mênh mông vô bờ của thôn trang, lặng lẽ kể lại chuyện trước đây của mưa gió Vụ Nguyên.
[6] Đường dịch: Đường chuyển công văn, thư ngày xưa.
Thôn xóm Vụ Nguyên có thế đội sơn đạp thủy, trước thôn hầu hết đều là những bến nước cổ. Bến nước bị cổ thụ, trúc xanh che khuất, toát lên sự tĩnh lặng và trầm mặc của tháng năm, nhưng không một ai ghi nhớ nổi lịch sử của chúng. Chỉ là năm này qua năm khác, chúng vẫn đậu lại nơi đầu thôn trang, bình thản mà trầm mặc ngắm nhìn khách đến khách đi. Nước sông vẫn trong vắt như xưa, y như con người Vụ Nguyên, ngày tháng giản đơn, sóng gió chẳng kinh sợ. Những chiếc bè tre đậu ngay ngắn, những chiếc ghế tre đơn sơ, những người lái đò đầu đội mũ rơm, dùng một cây sào dài chống xuống nước sông xanh biêng biếc, giữa dòng chảy khói mây bao phủ đi tìm một bến đò. Những cô gái hái chè lưng đeo gùi tre, hát vang mấy khúc sơn ca, trên cổ tay đeo những chiếc vòng bạc mà bà nội để lại, vẻ đẹp độc đáo của chúng bồng bềnh dưới ánh mặt trời.
Người trong thôn trang chèo bè tre đi lao động, đi họp chợ, giản dị đi ra ngoài, lại giản dị quay về. Nhưng sơn trang mộc mạc này không thay đổi dáng vẻ ban đầu, mấy mẫu ruộng ao, mấy thửa hoa màu, mấy ô giếng cổ, mấy gian nhà cũ, mấy làn khói bếp, tựa như một cuốn sách cổ ngàn năm, gió thổi khô dấu mực, gửi lại cho người đời sau tìm đọc. Bến nước không phải là nơi định mệnh ép con người ta phải quay về, mà chỉ là trạm nghỉ của linh hồn, cho dù tôi hay bạn đi qua mấy chặng sông nước, nó vẫn im hơi lặng tiếng.
Cầu mái ngói[7] ván gỗ cũng là một phong cảnh không thể thiếu ở Vụ Nguyên, biết bao năm tháng, nó dùng chiếc xà chiếc cột đã già nua của mình vắt ngang giữa non xanh nước biếc, không oán không hận. Nói đến cầu mái ngói, không thể quên được giấc mộng xưa trên cầu mái ngói ấy, thứ mà cầu mái ngói Vụ Nguyên cất giữ chính là giấc mộng bình thường giản dị của người Vụ Nguyên. Cầu mái ngói gửi gắm những tâm nguyện tốt đẹp của họ, cho nên mỗi một cây cầu đều có một cái tên đẹp. “Lưỡng thủy giáp minh kính, song kiều lạc thái hồng” (Hai dòng nước sáng gương soi. Cầu cây mống đỏ rực ngời trên sông[8]) là hai câu thơ nói đến cầu Thái Hồng (cầu Cầu Vồng) của trấn Thanh Hoa, cây cầu được tôn vinh là “Cầu mái ngói đẹp nhất Trung Quốc”.
[7] Một loại cầu có mái ở trên để che chắn, bảo vệ thân cầu, là chỗ nghỉ ngơi, gặp gỡ của khách bộ hành.
[8] Hai câu thơ trong bài “Thu đăng Tuyên Thanh Tạ Dữu bắc lâu” của Lý Bạch (đời Đường), bản dịch Nhã Uyên.
Cầu mái ngói thân bằng gỗ, tạo hình tuyệt đẹp, phong cách cổ xưa mộc mạc, dài tít tắp như khiến người ta nhìn thấy thời Nam Tống xa xôi. Lịch sử tám trăm năm, vô số người đã dừng chân nghỉ ngơi ở đây, xây đắp nên những câu chuyện. Mưa gió tám trăm năm, từ kiếp trước đến đời này, cầu Thái Hồng vẫn như năm nào, trấn tĩnh bình thản, chỉ già nua đi đôi chút. Ngồi nghỉ ngơi trên cầu, ngắm nhìn thôn xóm trong tranh, non xanh nước biếc. Một bè gỗ lững lờ trôi qua, bám vào đời người, cứ như thế, không hỏi đường về, không nói trở lại.
Chính ở miền quê đẹp nhất này, còn lưu giữ những kiến trúc Huy phái mộc mạc, trang nhã. Tường trắng ngói đen, mái cong góc lượn, nhà ở Vụ Nguyên đều có chung một bố cục này, tọa lạc trong sơn thôn sâu thẳm, đời đời nối truyền. Giống như một tòa nhà cổ bị năm tháng bỏ quên, thu hút vô số người đến gõ cánh cửa nặng nề nơi đình viện sâu hun hút, xem lại một quãng chuyện cũ của Vụ Nguyên. Điêu khắc gỗ, điêu khắc đá tinh xảo, những hiên cửa sổ chạm trổ hoa, tuy kinh qua xuân thu năm tháng, nhưng vẫn giữ được hoàn chỉnh vẹn toàn. Trên cửa còn treo chiếc gương đồng kiểu cũ, trên mặt bàn bày những bình hoa sứ men xanh, còn có chiếc đồng hồ quả lắc đang gõ nhịp, cho dù thời gian trôi qua bao lâu, chúng đều trầm tĩnh như thuở ban đầu.
Người dân trong núi thuần phác, sống cuộc đời bình thường nhất trong những ngôi nhà giản đơn. Muối một vại dưa chua, ủ vài vò rượu gạo, phơi mấy cân trà xuân, trong nhà mùi cơm thơm ngát, mùi thơm ngậy của thịt săn bốc lên. Tháng năm trôi qua như bóng câu, đời người như một vở kịch trên sân khấu cũ kỹ, từ khi bắt đầu đến khi hạ màn, có viên mãn và cũng có nuối tiếc. Vụ Nguyên, là nơi trú ngụ của sinh mệnh, chốn về của linh hồn, dù số phận an bài thế nào, họ cũng cam tâm tình nguyện chìm sâu ở đó, cả đời không hối hận.
Đi xuyên qua ngõ phố quanh co tĩnh mịch, không hẹn mà gặp một tòa từ đường nào đó. Ở Vụ Nguyên, từ đường là một bức tranh cổ phơi giữa thôn trang, toát lên mùi thơm nồng của lịch sử. Từ đường cũng là gốc rễ của người Vụ Nguyên, cho dù họ có đi đến đâu cũng biết, có một nơi đại diện cho nguồn cội của mình là từ đường ở cố hương, hết năm này qua tháng khác đang đợi chờ họ. Từ đường đối với những thương nhân Huy Châu xa quê đi làm ăn là một mảnh trăng sáng, treo ở nơi hút mắt nhất trong trái tim, khẽ chạm vào nó, liền cảm động đến mức lập tức rớt nước mắt.
Thôn Uông Khẩu có một tòa từ đường của họ Du, được mệnh danh là “Nghệ thuật điện đường”, được dựng từ giữa những năm Càn Long thời Thanh với khí thế hùng vĩ, kỹ thuật tinh xảo, bố cục hoàn mỹ và phong cách độc đáo, đã làm rung động tâm hồn của ngàn vạn người ghé thăm. Môn lầu, xà cột, góc hiên đều dùng thủ pháp nông sâu đậm nhạt, hư thực tương ứng, điêu khắc những hình vẽ tinh xảo như long phượng kỳ lân, nhân vật truyện kịch, chim bay thú chạy, hoa nở cỏ thơm… Từ đường nơi đây không chỉ là gốc rễ của người dân Vụ Nguyên, mà còn lắng kết văn hóa phong tục tập quán thâm hậu của chốn này. Đi xa tới tận chân trời, cuối cùng sẽ có một ngày phải quay về làng cũ, về từ đường, tưởng nhớ đức độ cha ông, ca ngợi công lao tổ tông.
Ở miền quê đẹp nhất Trung Quốc này có rất nhiều khung cảnh khiến người ta lưu luyến. Có thể chọn đến thác cao đệ nhất Hoa Hạ – thác Đại Chướng Sơn, để dòng chảy trong vắt xả trôi, tẩy rửa chút phù hoa cuối cùng trong tâm tưởng. Cũng có thể đến hồ Uyên Ương lớn nhất thế giới, ngắm uyên ương thành đôi thành cặp đang quấn quýt đùa vui giữa đồng xanh bèo nước, dùng tháng năm đổi lấy nét dịu dàng. Còn có thể ở vườn nhà trò chuyện với đại nhạn, ngậm làn khói bếp của thôn xóm, nằm mộng mà bay.
Thôn trang có tên gọi “làng sách”, “làng trà” này, giống như một thân cổ thụ, năm này qua năm khác, dùng mãi một tư thế để đợi chờ ở đây. Chẳng ai để ý đến tuổi tác của nó, cũng không so đo sao nó mãi không thay đổi, người đến đây đều nguyện ý trao bản thân cho ánh sáng giản dị nơi này.
Giống như đã từng nhuộm mây trắng gió lành của Vụ Nguyên, cho dù đời người trăm ngàn hồi chuyển cũng không thể xóa được đoạn duyên phận này. Vậy thì, rời đi trước khi trà nguội, cắt một chút ký ức ấm áp khôn xiết bỏ vào hành lý, hoặc là mua một nghiên mực cổ hình vuông đem về, vào một ngày hoài niệm chuyện cũ nào đó, viết nên câu chuyện sắc màu Vụ Nguyên. Non nước nhàn nhạt sắc màu, trong những nét chấm phá vẽ thôn trang, có một bóng hình, đó là chính chúng ta.
Thủy mặc Huy Châu
Không có quá khứ nào lặp lại, chưa từng có tương lai nào được báo trước, lần đầu tiên bước tới Huy Châu, như có một hơi hướm hoài cổ phả thẳng vào tâm hồn. Trong lúc mơ màng, ta luôn cảm thấy đã từng đến đây, mà dường như nơi đây lại cũng rất xa xôi. Dưới ánh nắng nhàn nhạt, khơi gợi ký ức lịch sử, gạn lọc bụi trần tháng năm, nhởn nhơ trong khung cảnh thi vị hiền hòa của Huy Châu. Những hàng dương liễu xinh đẹp thướt tha chia cắt đôi bờ, một bên là ngày hôm qua úa vàng, một bên là ngày hôm nay tươi sáng. Huy Châu lúc này như một chiếc nghiên cổ trầm mặc, bị thời gian mài mòn, lại từ từ loang ra trong nước, làm sống động cả một vùng Giang Nam.
Thời gian đuổi theo những bước chân vội vã kiếm tìm, men theo những hành lang vẽ tranh sơn thủy của Huy Châu cổ, bóc tách những bí mật chôn giấu trong nơi sâu thẳm của vòng quay năm tháng. Từng chiếc cổng tam quan khí thế khoáng đạt sừng sững giữa trời xanh biêng biếc, trầm lặng dưới khói tỏa bóng chiều. Những di tích mộc mạc cổ xưa của tiền triều giống như những đồ đồng thau, đồ gốm được khai quật, tích tụ sắc loang lổ lại tràn ngập hương vị cũ kỹ của lịch sử. Có nơi tú mỹ nguy nga, vẫn đứng đơn độc giữa trời xanh mây trắng; có nơi quanh co một dải, hợp thành quần thể, tự tại phô diễn chốn hoang sơ.
Kiến trúc cổng tam quan của Huy Châu bắt đầu được xây dựng vào những thời đại khác nhau, những điêu khắc tinh tế tuyệt luân và những hoa văn mang âm hưởng cổ điển tự nhiên thể hiện rõ rệt sự khí phái và huy hoàng mà nó đã từng có. Cổng tam quan tượng trưng cho nội hàm nhân văn Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, kể lại quá khứ đã lưu lại nơi đây, cũng cất giữ những câu chuyện qua từng năm tháng. Ánh dương chói lọi mạ sáng lịch sử đã xa xôi, tẩy sạch nền văn minh đã bị hoen gỉ, từng cánh cổng tam quan thấm đẫm sự uy nghiêm, phản chiếu vinh quang, ẩn chứa tình cảm, kể với người đời sự tang thương mưa gió hàng trăm nghìn năm qua.
Đến nay, chỉ có thể tìm thấy bóng dáng thấp thoáng của những trung thần hiếu tử và liệt nữ tiết phụ đương thời trong những hiện vật còn lưu lại, lần giở những câu chuyện lay động lòng người về họ trong ký ức mơ hồ. Lội ngược dòng lịch sử, thả cho dòng suy tưởng bay cao đến tận tầng mây, mượn tháng năm làm bút, lấy phong cảnh làm mực, những cổng tam quan cổ kính đã chép lại một bộ sử Huy Châu dài lâu liên tiếp, rộng lớn sâu xa.
Ánh mắt xuyên qua những hàng dương liễu buông rủ thướt tha trong gió, mạch suy nghĩ ngổn ngang ngưng đọng trong khoảnh khắc. Những tòa nhà cổ chìm đắm dưới ánh tịch dương mang một vẻ say đắm mông lung, giống như thủy mặc, quẩn quanh vương vít trong làn khói mãi không tan. Hai màu đen trắng là linh hồn chất phác của những tòa nhà dân ở Huy Châu, một vùng quần thể kiến trúc cổ đó không tô vẽ lộng lẫy, mà đen đến lạnh lùng, trắng đến mức thấu triệt, dùng vẻ đẹp mộc mạc và thái độ ôn hòa, phảng phất phong thái tự nhiên, hòa tan vào trong ngàn vạn sắc thái của cuộc sống, lặng lẽ nằm giữa non nước tú mỹ linh thiêng tao nhã như tranh.
Vào hai triều đại Thanh, Minh, nền kinh tế hàng hóa của Giang Nam phát triển cực thịnh, rất nhiều thương gia Huy Châu giàu có lừng lẫy một phương. Bọn họ áo gấm về làng, xây dựng nhà cửa, mang nét văn hóa đặc sắc của Huy Châu vào kiến trúc đình viện. Mỗi một bức tường đều có một sứ mệnh khó có thể vượt qua, chúng dõi nhìn cảnh tượng mênh mông mờ mịt phía xa, kiên trì giữ gìn quê nhà đã già cỗi.
Đẩy cánh cửa gỗ dày nặng trịch, bước vào sảnh đường, không khí cổ kính bao trùm trước sảnh nhà khiến trái tim của người từ ngoài vào dần dần chìm lắng. Từng bức ngói khắc, đá khắc, gỗ khắc phác họa những hình thù hoa chim trùng cá, những nhân vật, những chuyện kể, một lần nữa hội tụ đầy đủ lịch sử văn hóa của những triều đại khác nhau. Điều khiến bạn kinh ngạc là một căn nhà nho nhỏ lại có thể chứa đựng vạn vật trong đất trời, bao gồm toàn bộ tinh túy dân tộc cổ xưa. Phút quay người rời đi, một chiếc bình hoa kiểu cũ bám đầy bụi đã đủ gợi cho bạn một đoạn hồi ức như có như không.
Luôn luôn có một tâm tình sâu nặng trong con tim không thể xóa nhòa, như nước suối nguồn không thể cạn khô, mối tâm tình ấy âm thầm chảy liên miên không dứt trong suốt cuộc đời. Người Huy Châu sống quần tụ bên những miệng giếng khơi, chỉ cần những nơi có giếng nước là có khói bếp lam chiều, có muôn vàn sắc thái huyên náo sôi động. Dòng suối trong văn vắt đó chảy tràn qua mối tình quê trong suốt và cuộc sống ngọt ngào, từng giọt từng giọt đều thấm vào tận huyết mạch của người Huy Châu. Dưới ánh nắng mặt trời, mỗi miệng giếng cổ đều hồi tưởng lại công đức của những người đào giếng tạo phúc cho muôn dân, dùng phương thức đơn giản nhất để thể hiện nội hàm sinh dưỡng của cả một dân tộc. Rêu xanh thành giếng cũng chính là rêu xanh của đời người, tích lũy biết bao gió sương, càng lâu ngày lại càng dày lên thành lớp.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian